Chuyển đến nội dung chính

Ray of Light – Wikipedia tiếng Việt



Ray of Light là album phòng thu thứ bảy của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Madonna, phát hành ngày 22 tháng 2 năm 1998 bởi Maverick và Warner Bros. Records. Sau khi sinh đứa con đầu lòng của mình, Madonna bắt đầu làm việc cho album với những nhà sản xuất cô từng hợp tác trước đó như Babyface và Patrick Leonard. Tuy nhiên, sau khi không cảm thấy ưng ý với những thành quả từ quá trình cộng tác với họ, cô đã theo đuổi một hướng đi mới với nhà sản xuất người Anh William Orbit. Quá trình ghi âm đã được diễn ra trong bốn tháng và trải qua nhiều sự cố trong quá trình phối khí của Orbit, và việc thu âm đã phải hoãn lại cho đến khi chúng được khắc phục.

Được xem là bước đột phá so với những bản thu âm trước của cô, Ray of Light là một album electronica, dance và techno-pop bên cạnh sự kết hợp của nhiều thể loại âm nhạc khác, như ambient, trip hop và house. Những chủ đề huyền bí cũng xuất hiện mạnh mẽ trong cả âm nhạc và nội dung lời bài hát, như là kết quả từ việc Madonna theo đuổi Kabbalah, những nghiên cứu của cô về Ấn Độ giáo và Phật giáo, cũng như những bài tập hàng ngày của cô về Hatha yoga.

Sau khi phát hành, Ray of Light nhận được sự hoan nghênh rộng rãi từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao hướng đi mới của cô và gọi nó như là một kiệt tác. Được gọi là bản thu âm "phiêu lưu nhất" của cô, album được ghi nhận bởi chất trưởng thành và kín đáo của nó; những nhà phê bình còn ca ngợi giọng hát của Madonna trong album. Nó cũng giúp nữ ca sĩ giành bốn giải Grammy trên tổng số sáu đề cử. Về mặt thương mại, Ray of Light đạt vị trí quán quân ở nhiều quốc gia, bao gồm Úc, Canada, New Zeland và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, nó ra mắt và đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard 200 với doanh số tiêu thụ tuần đầu lớn nhất bởi một nghệ sĩ nữ lúc bấy giờ. Tính đến nay, Ray of Light đã bán được hơn 16 triệu bản trên toàn cầu.

Năm đĩa đơn được phát hành từ album, trong đó bao gồm những bản hit toàn cầu như "Frozen" và "Ray of Light". Để quảng bá cho album, Madonna thực hiện chuyến lưu diễn Drowned World Tour trong năm 2001. Ray of Light được xem là một trong những album thành công nhất về mặt chuyên môn trong sự nghiệp của Madonna, trong đó Rolling Stone liệt kê nó ở vị trí thứ 363 trong danh sách 500 album vĩ đại nhất mọi thời đại.[1] Nhiều học giả cũng ghi nhận tầm ảnh hưởng của album trong việc phổ biến nhạc điện tử vào nền văn hóa nhạc pop đại chúng. Họ cũng lưu ý rằng sự sáng tạo không ngừng nghỉ của Madonna với album đã giúp cô khẳng định tên tuổi của mình giữa những nghệ sĩ trẻ hơn lúc bấy giờ.















Thành công trên bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]








Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hệ thống phân loại phim của MPAA – Wikipedia tiếng Việt

Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ - Motion Picture Association of America (MPAA) đưa ra Hệ thống phân loại phim của MPAA và áp dụng trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ để phân loại phim trước khi lưu hành rộng rãi nhằm đảm bảo tựa đề, nội dung và tính chất của phim đúng với đối tượng xem. Đây là hệ thống được sử dụng rộng rãi nhất trên toàn thế giới để phân loại phim cho các đối tượng xem trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Tại Hoa Kỳ, Hệ thống phân loại phim của MPAA là hệ thống được công nhận rộng rãi nhất do tính hợp lý và khoa học của nó. Hệ thống này không phải là hệ thống của Chính phủ Hoa Kỳ nên không có hiệu lực hành chính theo kiểu bắt buộc mà là hệ thống khuyến cáo có lý gợi ý cho công chúng sử dụng sao cho hợp lý vì lợi ích của chính họ và gia đình họ. Hệ thống này chỉ sử dụng trong công nghiệp điện ảnh vì MPAA đã có đăng ký và bảo vệ bản quyền cho hệ thống này [1] . Các khuyến cáo sẽ lưu ý là trong phim có hay không các nội dung đáng chú ý trước khi xem như "ngôn ngữ dung tục",

Nakajima A6M2-N – Wikipedia tiếng Việt

Máy bay tiêm kích đánh chặn/tiêm kích-ném bom Nakajima A6M2-N là một kiểu thủy phi cơ một chỗ ngồi dựa trên thiết kế chiếc Mitsubishi A6M Zero Kiểu 11. Tên chính thức của Hải quân Đế quốc Nhật Bản là Thủy phi cơ Tiêm kích Hải quân Loại 2 Kiểu 11 , trong khi Phe Đồng Minh đặt cho nó tên mã là Rufe . Chiếc thủy phi cơ này được phát triển từ kiểu máy bay tiêm kích danh tiếng Mitsubishi A6M "Zero", nhằm mục đích hỗ trợ cho các chiến dịch đổ bộ và phòng thủ các căn cứ biệt lập. Nó được dựa trên khung của phiên bản A6M-2 Kiểu 11 , với đuôi được cải tiến và bổ sung các phao nổi. Chiếc máy bay này là sản phẩm tinh thần của Shinobu Mitsutake, kỹ sư trưởng hãng Nakajima, và Atsushi Tajima, một trong những nhà thiết kế của công ty. Có tổng cộng 327 chiếc được chế tạo, kể cả chiếc nguyên mẫu ban đầu. Thật không may cho các phi công, phao nổi chính và các phao phụ hai bên cánh trang bị cho chiếc A6M2-N đã làm suy giảm tính năng bay của nó đến khoảng 20%, đủ để cho Rufe thường không theo