Chuyển đến nội dung chính

Rắn hổ mang – Wikipedia tiếng Việt


Rắn hổ mang

Naja atra (03).jpg
Tình trạng bảo tồn

Phân loại khoa học
Giới (regnum)
Animalia
Ngành (phylum)
Chordata
Lớp (class)
Reptilia
Bộ (ordo)
Squamata
Phân bộ (subordo)
Serpentes
Họ (familia)
Elapidae
Chi (genus)
Naja
Loài (species)
N. atra
Danh pháp hai phần

Naja atra
Cantor, 1842[2][3]

Phân bố của Naja atra

Phân bố của Naja atra

Danh pháp đồng nghĩa[3]


  • Naja atra
    Cantor 1842

  • Naja tripudians var. scopinucha
    Cope, 1859

  • Naja tripudians var. unicolor
    Von Martens, 1876

  • Naia tripudians var. fasciata
    Boulenger, 1896

  • Naja naja atra
    Stejneger, 1907

  • Naja kaouthia atra
    Deraniyagala, 1960

  • Naja naja atra
    Golay, 1985

  • Naja sputatrix atra
    Lingenhole & Trutnau, 1989

  • Naja atra
    Ziegler, 2002

  • Naja (Naja) atra
    Wallach, 2009

Rắn hổ mang (danh pháp khoa học: Naja atra)[4][5] là một loài rắn thuộc Họ Rắn hổ (Elapidae). Đây là loài rắn xuất hiện tại miền bắc Việt Nam và được người Việt quen gọi bằng tên rắn hổ mang. Trong tiếng Việt, danh từ rắn hổ mang bắt nguồvn từ hình dạng của loài rắn này.





Nam Trung Quốc, Ấn Độ, Mianma, Thái lan, Malaixia, Lào, Miền Bắc Việt Nam.



Rắn hổ mang được cho là một món ăn có nhiều giá trị bổ dưỡng nên hay bị săn bắt, Rắn hổ mang là loài rất quý hiếm rất cần được bảo vệ. Chúng được sử dụng nhiều trong dược liệu, thực phẩm, thương mại.[cần dẫn nguồn]



Tại Việt Nam hiện nay, loài này có số lượng ngày càng ít. Trong sách đỏ Việt Nam, nó xếp vào mức đe dọa T.: Cần cấm khai thác và sử dụng.[cần dẫn nguồn]


Làng nuôi rắn[sửa | sửa mã nguồn]


Ở Việt Nam có những làng chuyên nuôi rắn hổ mang để sinh sống, như làng Phụng Thượng thuộc huyện Phúc Thọ (Hà Nội), cách thành phố Hà Nội khoảng 40 km. Các con rắn này được nuôi bằng thịt gà con. Họ bán chúng cho các quán ăn, hoặc xuất cảng sang Trung Quốc làm thuốc.






  1. ^ Ji, X. & Li, P. (2014). Naja atra. The IUCN Red List of Threatened Species. Version 2014.3.

  2. ^ “Naja atra”. ITIS Standard Report Page. ITIS.gov. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2012. 

  3. ^ a ă “Naja atra”. Taxonomy of Elapids. Reptile-Database. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2011. 

  4. ^ Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã thuộc quản lý của công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật thực vật hoang dã nguy cấp: Thông tư số 59 /2010/TT-BNNPTNT ngày 19 tháng 10 năm 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam

  5. ^ NHỮNG THAY ĐỔI SINH THÁI HỌC CỦA RẮN HỔ MANG (Naja atra Cantor) ĐƯA TỪ MIỀN BẮC VIỆT NAM (VĨNH PHÚ) VÀO NUÔI TẠI TRẠI RẮN ĐÀ NẴNG, QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG: Đề tài nghiên cứu khoa học trường Cao đẳng sư phạm Quảng Nam - Đà Nẵng năm 1979; Tác giả: Đinh Phương Anh - Trần Kiên










Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hệ thống phân loại phim của MPAA – Wikipedia tiếng Việt

Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ - Motion Picture Association of America (MPAA) đưa ra Hệ thống phân loại phim của MPAA và áp dụng trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ để phân loại phim trước khi lưu hành rộng rãi nhằm đảm bảo tựa đề, nội dung và tính chất của phim đúng với đối tượng xem. Đây là hệ thống được sử dụng rộng rãi nhất trên toàn thế giới để phân loại phim cho các đối tượng xem trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Tại Hoa Kỳ, Hệ thống phân loại phim của MPAA là hệ thống được công nhận rộng rãi nhất do tính hợp lý và khoa học của nó. Hệ thống này không phải là hệ thống của Chính phủ Hoa Kỳ nên không có hiệu lực hành chính theo kiểu bắt buộc mà là hệ thống khuyến cáo có lý gợi ý cho công chúng sử dụng sao cho hợp lý vì lợi ích của chính họ và gia đình họ. Hệ thống này chỉ sử dụng trong công nghiệp điện ảnh vì MPAA đã có đăng ký và bảo vệ bản quyền cho hệ thống này [1] . Các khuyến cáo sẽ lưu ý là trong phim có hay không các nội dung đáng chú ý trước khi xem như "ngôn ngữ dung tục",

Nakajima A6M2-N – Wikipedia tiếng Việt

Máy bay tiêm kích đánh chặn/tiêm kích-ném bom Nakajima A6M2-N là một kiểu thủy phi cơ một chỗ ngồi dựa trên thiết kế chiếc Mitsubishi A6M Zero Kiểu 11. Tên chính thức của Hải quân Đế quốc Nhật Bản là Thủy phi cơ Tiêm kích Hải quân Loại 2 Kiểu 11 , trong khi Phe Đồng Minh đặt cho nó tên mã là Rufe . Chiếc thủy phi cơ này được phát triển từ kiểu máy bay tiêm kích danh tiếng Mitsubishi A6M "Zero", nhằm mục đích hỗ trợ cho các chiến dịch đổ bộ và phòng thủ các căn cứ biệt lập. Nó được dựa trên khung của phiên bản A6M-2 Kiểu 11 , với đuôi được cải tiến và bổ sung các phao nổi. Chiếc máy bay này là sản phẩm tinh thần của Shinobu Mitsutake, kỹ sư trưởng hãng Nakajima, và Atsushi Tajima, một trong những nhà thiết kế của công ty. Có tổng cộng 327 chiếc được chế tạo, kể cả chiếc nguyên mẫu ban đầu. Thật không may cho các phi công, phao nổi chính và các phao phụ hai bên cánh trang bị cho chiếc A6M2-N đã làm suy giảm tính năng bay của nó đến khoảng 20%, đủ để cho Rufe thường không theo