Chuyển đến nội dung chính

Mohamed ElBaradei – Wikipedia tiếng Việt


Mohamed Mustafa ElBaradei (tiếng Ả Rập: محمد مصطفى البرادعى‎, Muḥammad Muṣṭafā al-Barādaʿī, phát âm tiếng Ả Rập Ai Cập: [mæˈħæmmæd mosˈtˤɑfɑ (ʔe)lbæˈɾædʕi]; sinh ngày 17 tháng 6 năm 1942) là một học giả luật, chính khách, nhà ngoại giao người Ai Cập. Ông hiện là Phó Tổng thống lâm thời của Ai Cập. Ông từng là Tổng giám đốc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), một tổ chức liên chính phủ nằm dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc từ 1997 tới 2009. Ông và IAED đồng nhận giải Nobel Hòa bình năm 2005. ElBaradei cũng là một nhân vật quan trọng trong nền chính trị những năm gần đây của Ai Cập, đặc biệt là trong cuộc Cách mạng Ai Cập 2011 và cuộc đảo chính tại Ai Cập 2013.






Articles
  • The 2005 Nobel Peace Prize, photoessay by Scott London

  • What Price, Peace?, Mohamed ElBaradei (LL.M '71, J.S.D. '74), NYU Law School, Autumn 2006

  • Paul C. Warnke Lecture on International Security: A World Free of Nuclear Weapons: Illusion or Possibility, Council on Foreign Relations, ngày 4 tháng 11 năm 2009

  • Full transcript of BBC's interview with Dr ElBaradei – May 2007 CASMII

  • Washington intercepts ElBaradei phone calls for information to displace him, Washington Post, ngày 11 tháng 12 năm 2004

Nomination of ElBaradei[sửa | sửa mã nguồn]




Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hệ thống phân loại phim của MPAA – Wikipedia tiếng Việt

Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ - Motion Picture Association of America (MPAA) đưa ra Hệ thống phân loại phim của MPAA và áp dụng trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ để phân loại phim trước khi lưu hành rộng rãi nhằm đảm bảo tựa đề, nội dung và tính chất của phim đúng với đối tượng xem. Đây là hệ thống được sử dụng rộng rãi nhất trên toàn thế giới để phân loại phim cho các đối tượng xem trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Tại Hoa Kỳ, Hệ thống phân loại phim của MPAA là hệ thống được công nhận rộng rãi nhất do tính hợp lý và khoa học của nó. Hệ thống này không phải là hệ thống của Chính phủ Hoa Kỳ nên không có hiệu lực hành chính theo kiểu bắt buộc mà là hệ thống khuyến cáo có lý gợi ý cho công chúng sử dụng sao cho hợp lý vì lợi ích của chính họ và gia đình họ. Hệ thống này chỉ sử dụng trong công nghiệp điện ảnh vì MPAA đã có đăng ký và bảo vệ bản quyền cho hệ thống này [1] . Các khuyến cáo sẽ lưu ý là trong phim có hay không các nội dung đáng chú ý trước khi xem như "ngôn ngữ dung tục",

Nakajima A6M2-N – Wikipedia tiếng Việt

Máy bay tiêm kích đánh chặn/tiêm kích-ném bom Nakajima A6M2-N là một kiểu thủy phi cơ một chỗ ngồi dựa trên thiết kế chiếc Mitsubishi A6M Zero Kiểu 11. Tên chính thức của Hải quân Đế quốc Nhật Bản là Thủy phi cơ Tiêm kích Hải quân Loại 2 Kiểu 11 , trong khi Phe Đồng Minh đặt cho nó tên mã là Rufe . Chiếc thủy phi cơ này được phát triển từ kiểu máy bay tiêm kích danh tiếng Mitsubishi A6M "Zero", nhằm mục đích hỗ trợ cho các chiến dịch đổ bộ và phòng thủ các căn cứ biệt lập. Nó được dựa trên khung của phiên bản A6M-2 Kiểu 11 , với đuôi được cải tiến và bổ sung các phao nổi. Chiếc máy bay này là sản phẩm tinh thần của Shinobu Mitsutake, kỹ sư trưởng hãng Nakajima, và Atsushi Tajima, một trong những nhà thiết kế của công ty. Có tổng cộng 327 chiếc được chế tạo, kể cả chiếc nguyên mẫu ban đầu. Thật không may cho các phi công, phao nổi chính và các phao phụ hai bên cánh trang bị cho chiếc A6M2-N đã làm suy giảm tính năng bay của nó đến khoảng 20%, đủ để cho Rufe thường không theo